Lịch sử Tatmadaw

Thời kỳ trước thuộc địa

Lực lượng vũ trang Hoàng gia là lực lượng vũ trang của chế độ quân chủ của Myanmar từ 9 đến thế kỷ thứ 19.Là quân đội của triều đại Pagan,Triều Ava, Triều ToungooTriều Konbaung theo thời gian. Quân đội là một trong những lực lượng vũ trang chính của Đông Nam Á cho đến khi bị Vương quốc Anh đánh bại những năm 60 của thế kỷ 19.

Quân đội đã được tổ chức thành quân đội thường trực nhỏ khoảng vài ngàn, bảo vệ thủ đô và cung điện, và quân đội nghĩa vụ dựa vào thời chiến.Chế độ nghĩa vụ dựa vào hệ thống ahmudan, yêu cầu người đứng đầu các địa phương phải cung cấp hạn ngạch xác định nam giới đủ điều kiện theo dân số trong thời chiến. Quân đội thời chiến cũng bao gồm tượng binh, kỵ binh, pháo binhhải quân.

Súng được mua từ Trung Quốc vào cuối thế kỷ 14, trở thành vũ khí chiến lược qua nhiều thế kỷ. Súng hoả mai và pháo binh là 2 đơn vị đặc biệt đầu tiên, được trang bị súng hỏa mai và đại bác Bồ Đào Nha vào thế kỷ 16. Ngoài đơn vị đặc biệt, không có chương trình đào tạo chính thức cho lính nghĩa vụ thường xuyên,phải có kiến thức căn bản về phòng thủ, và sử dụng súng hoả mai. Khoảng cách công nghệ giữa cường quốc châu Âu được phát triển mạnh vào thế kỷ 18, quân đội phụ thuộc vào người châu Âu để mua vũ khí hiện đại hơn.

Trong khi quân đội được tổ chức riêng để chống lại quân đội của các nước láng giềng, công nghệ của châu Âu giảm dần theo thời gian. Trong khi đánh bại Bồ Đào Nha và Pháp xâm lược trong các thế kỷ 17 và 18, quân đội không thể ngăn bước tiến của Đế quốc Anh trong thế kỷ 19, thất bại sau ba cuộc chiến tranh Anh-Miến Điện. Ngày 1 tháng 1 năm 1886, chế độ quân chủ Miến Điện và quân đội Hoàng gia bị người Anh xóa bỏ.

Thời kỳ thuộc địa (1824–1948)

Đế quốc Anh sử dụng Quân đội Ấn Độ và Gurkha để bình ổn và cai trị khu vực.Tại Tỉnh Miến Điện,Anh áp dụng cơ chế quân đội Ấn Độ kết hợp với quân bản địa là người thiểu số của Miến Điện như:Karen, KachinChin.Chính quyền Anh không tin vào người Miến Điện.Trước 1937 chỉ có vài ngoại lệ,còn đâu không có Người Miến trong quân đội thuộc đia.

Vào đầu thế chiến thứ 1,Trung đoàn quân bản địa phục vụ trong Quân đội Ấn Độ chỉ có Trung đoàn bộ binh 70,và được chia thành 3 tiểu đoàn Karen,Kachin,Chin.Trong chiến tranh chính quyền Anh nới lỏng lệnh cấm,nâng cấp 1 tiểu đoàn trong Trung đoàn 70 lên thành 1 Đại đội súng trường 85 và 7 đại đội Cơ Vận tải.Ngoài ra còn 3 đại đội đặc công và mỏ đa phần là người Miến Điện và 1 đại đội trong Quân đoàn Tiên phong Hoàng gia đa phần là người Chin và Miến.Tất cả đều được hoạt động từ năm 1917 ở Miến Điện,Trung đoàn 70 đồn trú tại Ai Cập,Quân đoàn Tiên phong Hoàng gia đóng tại Pháp. 1 Đại đội phục vụ ở Lưỡng hà sông Tigris.

Khi chiến tranh kết thúc,chính quyền Anh ngừng tuyển dụng người Miến,và 1 đại đội bị giải tán vào năm 1925.Đại đội cuối cùng bị giải tán là Đại đội đặc công và mỏ vào năm 1929.Anh sử dụng Ấn Độ thuộc địa và dân tộc thiểu số trong quân đội để đàn áp các cuộc biểu tình và nổi loạn,đặc biệt là cuộc nổi dậy của nông dân Saya San vào năm 1930-1931.Các chính sách đã chia rẽ các dân tộc của Miến Điện trong thời gian dài.Vào ngày 1 tháng 4 năm 1937, Miến Điện trở thành thuộc địa riêng biệt, và Người Miến đã đủ điều kiện để nhập ngũ. Nhưng ít người Miến tham gia. Trước khi thế chiến II, quân đội Miến Điện thuộc Anh bao gồm Karen (27,8%), Chin (22,6%), Kachin (22,9%), và Miến 12,3%, không tính sĩ quan.

Vào tháng 12 năm 1942 một nhóm hoạt động độc lập thành lập Quân đội độc lập Miến Điện (BIA)với sự hỗ trợ của Nhật Bản.Quân đội do Aung San lãnh đạo đứng về phe của Đế quốc Nhật Bản.Hàng ngàn thanh niên tham gia,ước tính có số lượng khoảng từ 15.000 đến 23.000. Đại đa số tân binh là người Miến, với ít người là dân tộc thiểu số. Nhiều người trong số các tân binh thiếu kỷ luật. Tại Myaungmya ở vùng đồng bằng Irrawaddy, một cuộc chiến tranh dân tộc đã nổ ra giữa BIA và Karen, cả hai bên đều chịu trách nhiệm về vụ thảm sát. BIA được thay thế bằng Quân đội Quốc phòng Miến Điện, được thành lập trên 26 tháng 8 năm 1942 với 3000 cựu binh BIA. Ngày 01 tháng 8 năm 1943 Quân đội trở thành Quân đội Quốc gia Miến Điện (BNA) với Ne Win là chỉ huy khi Miến Điện được độc lập trên danh nghĩa. Vào cuối năm 1944, có quân số khoảng 15.000 người.

Vỡ mộng với Nhật Bản,ngày 27 tháng 3 năm 1945 BNA chuyển phe gia nhập phe đồng minh chống phát xít.

Thời kỳ sau Thế chiến đến nay

Tại thời điểm độc lập năm 1948,Tatmadaw yếu, nhỏ và bị chia rẽ. Những rạn nứt xuất hiện theo thành phần sắc tộc, liên minh chính trị, nguồn gốc tổ chức và dịch vụ khác. Sự can thiệp của người dân và chính trị gia vào lĩnh vực quân sự,và sự nhận thức khác biệt giữa sĩ quan tham mưu và chỉ huy trưởng đã làm gây mất đoàn kết và hoạt động.Nghiêm trọng nhất là căng thẳng giữa sĩ quan người Karen của Quân đội Anh Miến và sĩ quan người Miến của Lực lượng yêu nước Miến Điện (PBF).

Theo Hội nghị Kandy tháng 9 năm 1945,Tatmadaw được tổ chức lại bắng cách hợp nhất 2 lực lượng Quân đội Anh Miến và Lực lượng yêu nước Miến. Sĩ quan được chia sẻ bằng các cựu sĩ quan PBF, Quân đội Anh Miến và Tổ chức Dự bị Quân đội Miến Điện (ARBO). Anh thành lập "Lớp Tiểu đoàn" dựa trên các dân tộc,có 15 tiểu đoàn bộ binh tại thời điểm độc lập,4 trong số đó được tạo từ PBF.Các cựu sĩ quan PBF không có vị trí thế lực trong Bộ Chiến tranh và mệnh lệnh. Tất cả dịch vụ bao gồm kỹ sư quân sự, cung cấp và vận tải, khí tài và dịch vụ y tế, hải quân và không quân thuộc quyền chỉ huy của cựu sĩ quan ABRO và Quân đội Anh Miến.

Thành phần dân tộc và quân đội của Tatmadaw vào năm 1948[3]
Tiểu đoànThành phần Dân tộc/Quân đội
Bộ binh Miến Điện Số 1Người Miến (Cảnh sát + Thành viên du kích của Taungoo thành viên của nhóm Aung San PBF)
Bộ binh Miến Điện Số 22 Đại đội Karen + Đại đội 1 Chin và 1 Đại đội Kachin
Bộ binh Miến Điện Số 3Người Miến / Cựu thành viên của Lực lượng yêu nước Miến -Tư lệnh Thiếu tá Kyaw Zaw
Bộ binh Miến Điện Số 4Người Miến / Cựu thành viên của Lực lượng yêu nước Miến -Tư lệnh Trung tá Ne Win
Bộ binh Miến Điện Số 5Người Miến / Cựu thành viên của Lực lượng yêu nước Miến -Tư lệnh Trung tá Zeya
Bộ binh Miến Điện Số 6Thành lập sau khi Aung San bị ám sát đầu năm 1947, Người Miến / Cựu thành viên của Lực lượng yêu nước Miến -Đứng đầu Zeya
Bộ binh Karen Số 1Người Karen / Cựu thành viên Quân đội Anh Miến và ABRO
Bộ binh Karen Số 2Người Karen / Cựu thành viên Quân đội Anh Miến và ABRO
Bộ binh Karen Số 3Người Karen / Cựu thành viên Quân đội Anh Miến và ABRO
Bộ binh Kachin Số 1Người Kachin / Cựu thành viên Quân đội Anh Miến và ABRO
Bộ binh Kachin Số 2Người Kachin / Cựu thành viên Quân đội Anh Miến và ABRO
Bộ binh Chin Số 1Người Chin / Cựu thành viên Quân đội Anh Miến và ABRO
Bộ binh Chin Số 2Người Chin / Cựu thành viên Quân đội Anh Miến và ABRO
Trung đoàn Miến Điện Số 4Gorkha
Tiểu đoàn Chin HillNgười Chin

Văn phòng chiến tranh được thành lập vào ngày 08 tháng 5 năm 1948 thuộc Bộ Quốc phòng và Văn phòng Hội đồng chiến tranh dưới sự quản lý của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.Đứng đầu Văn phòng chiến tranh là Tham mưu Trưởng, Phó Tham mưu trưởng, đứng đầu hải quân, đứng đầu không quân, Sĩ quan quản trị cao cấp và Chủ nhiệm tổng cục hậu cần. Phó Tham mưu trưởng (VCS), cũng là Tổng tham mưu trưởng và đứng đầu Văn phòng Tổng tham mưu. VCS giám sát các vấn đề Tổng tham mưu và có ba văn phòng chi nhánh: GS-1 hoạt động và Đào tạo, GS-2 nhân viên thuế và Kế hoạch; GS-3 tình báo. Quân đoàn tín hiệu và Quân đoàn kỹ thuật cũng chịu sự chỉ huy của Tổng tham mưu.

Ngày 14 tháng 4 năm 1948,Thông qua sắc lệnh quân sự Tổng Tham mưu trưởng thuộc Văn phòng chiến tranh và mang hàm cấp thiếu tướng.Sau đó được nâng lên hàm Trung tướng.Phó tổng tham mưu hàm Thiếu tướng.

Tổ chức lại 1956

Theo lệnh của Văn phòng Chiến tranh số (9) 1955 vào ngày 28 tháng 9 năm 1955, Tham mưu trưởng trở thành Tổng Tư lệnh, Tham mưu trưởng lục quân trở thành Phó Tổng Tham mưu (Lục quân), Tham mưu trưởng Hải quân trở thành Phó Tổng Tham mưu (Hải quân) và Tham mưu trưởng Không quân trở thành Phó Tổng Tham mưu (Không quân).

Ngày 1 tháng 1 năm 1956, Văn phòng Chiến tranh chính thức được đổi tên thành Bộ Quốc phòng. Tướng Ne Win trở thành Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên của quân đội Miến Điện chỉ huy cả ba lực lượng - Lục quân, Hải quân và Không quân - lần đầu tiên dưới một tư lệnh thống nhất duy nhất.

Chuẩn tướng Aung Gyi được bổ nhiệm chức vụ Phó Tổng Tham mưu (Lục quân). Chuẩn tướng D. A Blake trở thành Tư lệnh Bộ Tư lệnh Quân khu Nam Miến (SBSD) và Chuẩn tướng Kyaw Zaw, thành viên trong "30 đồng chí", đã trở thành Tư lệnh của Bộ Tư lệnh Quân khu Bắc Miến (NBSD).

Thay mặt Chính phủ

Do tình hình chính trị suy thoái vào năm 1957, Thủ tướng Miến Điện, U Nu đã mời Tướng Ne Win thành lập "Thay mặt Chính phủ" và giao quyền cho ngày 28 tháng 10 năm 1958. Dưới sự quản lý của Chính phủ quân đội, các cuộc bầu cử quốc hội đã được tổ chức vào tháng 2/1960. Một số quan chức cao cấp và cấp cao đã bị miễn nhiệm do sự tham gia của họ và hỗ trợ các đảng chính trị khác nhau.

Các quan chức cấp cao bị sa thải vì bị cáo buộc gian lận bầu cử[4]
Mã sốTên và cấp bậcTư lệnhNgàyGhi chú
BC3505Chuẩn tướng Aung ShweTư lệnh, Bộ Tư lệnh Quân khu Nam Miến13/2/1961
BC3507Chuẩn tướng Maung MaungGiám đốc học viện Đào tạo Quân sự/ Tư lệnh, Cao đẳng Quốc phòng13/2/1961
BC3512Đại tá Aye MaungLữ đoàn bộ binh số 213/2/1961
BC3517Đại tá Tin MaungLữ đoàn bộ binh số 1213/2/1961
BC3570Đại tá Hla MawLữ đoàn bộ binh số 513/2/1961Cha của Thein Hla Maw
BC3572Đại tá Kyi WinLữ đoàn bộ binh số 78/3/1961
BC3647Đại tá Thein ToteLữ đoàn bộ binh số 413/2/1961
BC3181Trung tá Kyaw Myint23/6/1962Lữ đoàn bộ binh số 10 // 13/2/1961
BC3649Trung tá Chit KhaingPhó Tư lệnh, Trường Lực lượng Phối hợp13/2/1962

Đảo chính năm 1962

Năm 1960 U Nu tái đắc cử trở thành Thủ tướng và đảng Pyidaungsu tiếp tục dẫn dắt đất nước.

Ngày 2 tháng 3 năm 1962,Tổng tham mưu trưởng Ne Win tiến hành đảo chính lật đổ chính phủ và thành lập "Hội đồng Liên minh Cách mạng"

Hội đồng Liên minh Cách mạng
Tên và Cấp bậcChức vụ quân độiChức vụ Hội đồngNgày
Đại tướng Ne Win BC 3502Tổng tham mưu trưởngChủ tịch2-3-1962 tới 1-3-1974
Chuẩn tướng Aung Gyi BC 5458Phó Tổng tham mưu trưởngThành viên2-3-1962 tới 7-2-1963
Chuẩn tướng Than PhayPhó tham mưu trưởng Hải quânThành viên2-3-1962 tới 22-5-1962
Chuẩn tướng Tin Phay BC 3508Chủ tịch Lâm nghiệpThành viên2-3-1962 tới 14-11-1970
Chuẩn tướng Tommy CliftPhó tham mưu trưởng Không quânThành viên2-3-1962 tới 2-11-1964
Chuẩn tướng San Yu BC 3569Tư lệnh khu vực Tây BắcThành viên2-3-1962 tới 2-3-1974
Chuẩn tướng Sein Win BC 3525Tư lệnh khu vực Trung tâmThành viên2-3-1962 tới 2-3-1974
Đại tá Kyi Maung BC 3516Tư lệnh khu vực Tây NamThành viên2-3-1962 tới 12-3-1963
Đại tá Maung Shwe BC 3575Tư lệnh khu vực ĐôngThành viên2-3-1962 tới 22-9-1972
Đại tá Thaung Kyi BC 3523Tư lệnh khu vực Đông NamThành viên2-3-1962 tới 2-3-1974
Đại tá Than Sein BC 3574Đai tá Tham mưuThành viên2-3-1962 tới 2-3-1974
Đại tá Kyaw Soe BC 3526Thành viên2-3-1962 tới 2-3-1974
Đại tá Saw Myint BC 3518Thành viên2-3-1962 tới 17-8-1964
Đại tá Chit Myaing BC 3520Thành viên2-3-1962 tới 31-3-1964
Đại tá Khin Nyo BC 3537Thành viên2-3-1962 tới 9-6-1965
Đại tá Tan Yu Saing BC 5090Thành viên2-3-1962 tới 6-10-1970
Đại tá Lun Tin BC 3610Tư lệnh Lữ đoàn Bộ binh số 7Thành viên5-7-1962 tới 9-7-1971
Đại tá Maung LwinThành viên12-9-1964 tới 2-3-1974
Đại tá Tin Oo BC 3651Tư lệnh khu vực Tây NamThành viên12-9-1964 tới 2-3-1974
U Ba NyeinThành viên9-7-1971 tới 2-3-1974
Maung MaungThành viên9-7-1971 tới 2-3-1974
Mahn Thar MyaingThành viên9-7-1971 tới 2-3-1974

Sau đó Miên Điện được quản lý bởi giới quân đội trong 12 năm,Đảng Cương lĩnh xã hội chủ nghĩa Miến Điện là đảng duy nhất,và thành viên đa phần là giới quân sự.

Đảo chính 1988

Trong thời gian diễn ra cuộc biểu tình 8888,Chủ tịch Đảng Cương lĩnh Xã hội chủ nghĩa Miến Điện Ne Win ra tuyên bố về việc đàn áp biểu tình trên đài truyền hình.

Sau đó các Sư đoàn Bộ binh hạng nhẹ như 22,33,44 được bố trí tại Yangoon chống lại quân biểu tình và Bang Karen.Ngày 8 tháng 8 năm 1988 Sư đoàn Bộ binh hạng nhẹ 22 nổ súng vào người biểu tình đã dẫn tới cuộc biểu tình lớn trên khắp cả nước.

Vào ngày 18 tháng 9 năm 1988,Lực lượng vũ trang dưới quyền của tướng Saw Maung đã thành lập Hội đồng Khôi phục Trật tự và Pháp luật Liên bang,bãi bỏ hiến pháp ban hành thiết quân luật.Tại thời điểm này quân đội chính thức kiểm soát cả nước.